
- April 22, 2021
- Spring & Fall Cleanup
- VƯỜN THIỀN
Trong cuộc sống tĩnh lặng của một thiền viện, khu vườn đóng vai trò tương đối quan trọng. Đó là nơi nghỉ chân của môn sinh lúc hành thiền, là không gian để chiêm nghiệm những công án, là nơi con người hòa hợp với đất trời và tất nhiên, đó là nơi thể hiện một trong những mảng nghệ thuật của thiền học.
Dưới con mắt của người làm vườn cảnh, vườn Thiền cũng có đầy đủ tính chất cấu tạo và bố cục chặt chẽ như các loại vườn khác. Ở đây, cây cỏ, mặt nước và đất đá hòa quyện lẫn nhau, tạo nên một không gian hài hòa với các công trình kiến trúc khác như tượng Phật, mái cong của ngôi chùa cổ kính v.v…
Cây cỏ trong vườn Thiền thường là những cây dễ trồng, mộc mạc, không đưa hương khoe sắc rực rỡ, không phải là hoa thơm cỏ lạ như trong các hoa viên khác. Màu xanh của thảm cỏ và các loại cây thường xanh được phối kết một cách đơn giản, tự nhiên nhưng sinh động lạ kỳ. Đặc biệt, trong vườn Thiền bao giờ cũng có trồng cây hình lá kim như thông ba lá (Pinus kesiya Royle) hoặc thông hai lá(Pinus merkusiana Cool et Gauss). Có khi người ta trồng La hán tùng (Podocarpus brevifolius) hoặc thông Úc (Agathis australis Sfeud). Theo Linda Gamlin, “phần lớn cây mang quả hình nón đều có khả năng chống chịu dẻo dai với thời tiết khắc nghiệt. Lá cứng hình kim của chúng không dễ dàng bị khô cong như lá rộng bản, vì vậy chúng thích ứng tốt với các loại khí hậu nóng khô, chúng cũng chịu đựng tốt trong mùa Đông băng giá”. Có lẽ sự thích ứng của loại cây này trong bất kỳ không gian và thời gian nào cũng nói lên một trong những khía cạnh của triết lý vườn Thiền.
Mặt nước trong vườn Thiền thường là mặt nước tĩnh với con sông uốn khúc vòng quanh đồi núi. Những chiếc cầu cong nhỏ xinh xinh bắc qua sông dẫn đến những tảng đá hoặc lùm cây hoặc một nhà nghỉ chân đơn sơ như ở vườn chùa Huyền Không (Huế) chẳng hạn. Đôi lúc con sông khô được hình thành bởi cát, sỏi như thường gặp ở các dạng vườn kiểu Nhật. Thỉnh thoảng cũng bắt gặp mặt nước động như thác đổ, suối nhưng rất ít. Có lẽ sự ồn ào của mặt nước thái quá sẽ không phù hợp với sự tĩnh lặng trong vườn Thiền.
Đất đá đóng vai trò quan trọng không kém cây cỏ trong vườn Thiền. Thông thường những tảng đá được bố trí bởi thủ pháp riêng biệt toát lên một vẻ Thiền rất khó tả. Cái vẻ uy nghi mà thân mật, hoành tráng mà mộc mạc tự nhiên đó tuy khó tả nhưng rất dễ cảm nhận khi bước vào vườn Thiền. Trong vườn Thiền của thiền viện Thường Chiếu (Long Thành – Đồng Nai), ta bắt gặp cây thông bên cạnh một tảng đá dựng đứng tạo nên một cảm giác rất lạ, bàng bạc mà hùng vĩ vô cùng. Thiền viện này do Hòa thượng Thích Thanh Từ sáng lập năm 1974, khu vườn thì được thực hiện năm 1995 do vị sư trụ trì là Thượng tọa Thích Nhật Quang xây dựng nên. Đến nay tuy khu vườn được các môn đệ thêm thắt rối rắm nhưng những nét chính vẫn còn được giữ lại. Cái tảng đá và cây thông rất tự nhiên nhưng cũng được đặt rất “có ý đồ” về bố cục, là một điểm chính, hay như Thượng tọa Thích Nhật Quang nói đó là “chủ vị” của khu vườn.
Ta cũng bắt gặp đèn đá trong vườn Thiền với hình thể đơn giản,không nhiều đường nét như của đèn đá trong vườn Trung Quốc, không nặng nề như một số đèn đá trong các sân vườn biệt thự của phương Tây.
Vườn Thiền là một trong những mảng nghệ thuật của Thiền học, trong đó Thiên nhiên hay Tự nhiên đóng vai trò chủ đạo trong bố cục, thủ pháp hình thành khu vườn. Thật vậy, trong Thiền học Việt Nam đã chỉ ra rằng: “Một trong những kỹ thuật thẩm mỹ chính yếu tối căn bản làm nguồn sáng tạo nghệ thuật đạo học Thiền tông là Thiên nhiên hay Tự nhiên. Thiên nhiên là đối tượng của nghệ thuật đồng thời là cứu cánh của nghệ thuật ngụ ở hai chữ Tạo hóa, vừa chỉ vào thế giới sự vật tạo ra và hóa đi, vừa chỉ vào cái thế lực sáng tạo, vừa là tạo vật, vừa là hóa công. Hóa công không từng một chút ly khai với tạo vật, cũng như nghệ sỹ không từng rời khỏi tác phẩm”. (Nguyễn Đăng Thục)
Một vấn đề khó khăn trong việc nghiên cứu vườn Thiền là khó mà phân tích cặn kẽ để từ đó đưa ra một phương pháp, một cách xây dựng vườn Thiền bởi “không chua ý đến mỹ thuật mà lại rất mỹ thuật”. Từ bàn tay của Thiền sư, khu vườn được xếp đặt một cách tự nhiên nhưng lại có bố cục chặt chẽ, hài hòa và toát lên một vẻ rất “Thiền”. Trong Thiền học Việt Nam cũng nói: “Đạo sĩ vơi tâm Thiền lấy chân lý Phật tức Tâm làm vấn đề thực hiện, không phải vấn đề trí thức suy luận. Qua Phật tính, không ở đâu xa trong thế giới trừu tượng nào hết, mà tại đây chỗ nào hợp cảnh hợp tình, ở đấy có sự mãn túc, có hòa điệu du dương, nhập họa mỹ miều, mà tự nhiên sáng tạo sinh thành, như cây ngô gặp khí Xuân nảy nở phục sinh, sức sông tràn ngập; như hương thơm gặp gió thoảng thơm nức bốn phương, đấy là kiến tinh thành Phật trong con mắt Thiền học nghệ thuật” (Nguyễn Đăng Thục). Qua đó cũng thấy một nghịch lý là không phải hiểu vườn Thiền dưới con mắt của một người làm vườn cảnh mà “lấy TÂM làm vấn đề thực hiện, không phải vấn đề trí thức suy luận”…
Một chuyện nhỏ cần được nói thêm qua bài viết này là trong một cuốn sách về vườn Nhật xuất bản tại thành phố Hồ Chí Minh có viết: “Trong vườn Thiền, công việc cọ đá, cào đá là nhiệm vụ của những tăng nhân tôn kính, đã nhiều năm tu tập. Trừ viện chủ, tăng nhân bậc càng cao thì được giao công việc càng nặng nhọc và hèn hạ hơn”. Thượng tọa Thích Thông Hạnh, Phó trụ trì Thiền viện Thường Chiếu cho biết không phải như vậy mà “Bậc càng cao thì được giao công việc càng khó hơn”.
Tóm lại, để hiểu và cảm nhận vườn Thiền chúng ta có thể tìm hiểu triết ký của Thiền và phân tích vườn Thiền từ những khu vườn trong các Thiền viện, trong các sách báo, tài liệu, nhưng để xây dựng một vườn Thiền, ngoài kiến thức về vườn cảnh trước hết chúng ta phải đi vaò con đường thiền, lấy TÂM làm vấn đề thực hiện, có như thế khu vườn được thực hiện mới tự nhiên toát lên vẻ “Thiền” chứ không phải là một vườn cảnh đầy màu sắc “trần tục”.